Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Phan Nhạc
bĩ thái 否泰
dt. tên hai quẻ trong Kinh Dịch, trời đất giao hoà, muôn vật hanh thông thì gọi là thái 泰, ngược lại bế tắc không giao hoà thì gọi là bĩ 否, hai quẻ biểu tượng cho sự đối lập tốt - xấu, thịnh - suy, bế tắc - hanh thông. Phan Nhạc đời Tấn trong tây chinh phú có câu: “há địa thế lúc an nguy, thực việc đời khi bĩ thái” (豈地勢之安危,信人事之否泰 khởi địa thế chi an nguy, tín nhân sự chi bĩ thái). Cho hay bĩ thái mấy lề cũ, nẻo có nghèo thì có an. (Bảo kính 144.7).
huyện hoa 縣花
dt. đc. dịch chữ hoa huyện 花縣. Phan Nhạc đời Tấn làm Huyện lệnh huyện Hà Dương, cho người trồng hoa đào khắp nơi. Mọi người khen: “Hà Dương một huyện hoa.” (河陽一縣花) (xem bạch Khổng lục thiếp q.17), sau dùng chữ huyện hoa, hay hoa huyện là để trỏ cảnh thịnh trị thái bình. Lý Hạ trong bài Xuân trú có câu: “Bình dương cụm hoa, Hà Dương huyện hoa.” (平陽花塢,河陽花縣 bình dương hoa ổ, Hà Dương hoa huyện). Diếp huyện hoa còn quyến khách, rày biên tuyết đã nên ông. (Thuật hứng 62.3).
lồng chim ao cá 篭𪀄泑𩵜
Thng dịch chữ 籠鳥池魚 lung điểu trì ngư. Phan Nhạc đời Tấn trong bài Thu hứng phú có câu: “Ví như chim lồng cá ao, còn mang lòng suối khe đầm núi.” (譬猶池魚籠鳥,有江湖山藪之思 thí do trì ngư lung điểu, hữu giang hồ sơn tẩu chi tư). Đào Uyên Minh trong bài Quy viên điền cư có câu: “Chim mắc lưới luyến rừng xưa, cá nằm ao mơ vực cũ.” (羈鳥戀舊林,池魚思故淵 ky điểu luyến cựu lâm, trì ngư tư cố uyên). Sau, câu này còn dùng để ví với những tai hoạ không may gặp phải, hoặc ví với cảnh bị ràng buộc mất tự do, như trì ngư chi hoạ 池魚之禍 hay trì ngư chi lự 池魚之慮. Lồng chim ao cá từ làm khách, ngòi nguyệt ngàn mai phụ lệ nhà. (Tự thuật 118.5). ở đây tác giả đang nói đến chuyện bị cầm cố trong chốn quan trường.